Nhân bản là gì? Các công bố khoa học về Nhân bản
Nhân bản là quá trình tạo ra bản sao di truyền của sinh vật, thu hút sự chú ý do tiềm năng ứng dụng và vấn đề đạo đức. Có hai dạng chính: nhân bản sinh dưỡng và động vật. Nhân bản sinh dưỡng phổ biến trong nông nghiệp, bảo tồn đặc điểm di truyền ưu việt; nhân bản động vật nổi bật với cừu Dolly, mở ra hướng nghiên cứu y học. Lợi ích của nhân bản bao gồm sản xuất thuốc, nghiên cứu bệnh và bảo tồn loài quý hiếm. Tuy nhiên, lo ngại đạo đức, như nhân bản con người, đòi hỏi quy định nhằm cân bằng tiến bộ và đạo đức.
Nhân Bản: Khái Niệm Và Lịch Sử Phát Triển
Nhân bản là một thuật ngữ dùng để chỉ việc tạo ra một bản sao chính xác về mặt di truyền của một sinh vật, tế bào hay thậm chí là một phân tử. Công nghệ nhân bản đã thu hút sự quan tâm của không chỉ giới khoa học, mà còn từ phía công chúng do những ứng dụng tiềm năng cũng như các vấn đề đạo đức mà nó đặt ra.
Các Hình Thức Nhân Bản
Có nhiều dạng nhân bản khác nhau, trong đó phổ biến nhất là nhân bản sinh dưỡng và nhân bản động vật. Nhân bản sinh dưỡng là quá trình tạo ra một sinh vật hoàn chỉnh từ một tế bào đơn giản mà không cần sự thụ tinh. Trong khi đó, nhân bản động vật, nổi bật với trường hợp của cừu Dolly, là quá trình nhân bản một cá thể động vật từ tế bào soma của một cá thể cùng loài.
Nhân Bản Sinh Dưỡng
Nhân bản sinh dưỡng thường được áp dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp để tạo ra những cây trồng và cây cảnh có chất lượng và năng suất cao. Bằng cách này, các đặc điểm di truyền ưu việt được bảo tồn và nhân rộng một cách hiệu quả.
Nhân Bản Động Vật
Nhân bản động vật đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, bao gồm việc chuyển nhân tế bào soma và tái lập trình tế bào. Một trong những đột phá lớn nhất là thành công của việc nhân bản cừu Dolly vào năm 1996, một bước tiến khoa học vĩ đại mở ra nhiều tiềm năng nghiên cứu y học và bảo tồn các loài có nguy cơ tuyệt chủng.
Lợi Ích Tiềm Năng Của Công Nghệ Nhân Bản
Nhân bản có thể mang lại nhiều ứng dụng hữu ích trong y học, như sản xuất các thuốc điều trị, nghiên cứu bệnh lý và cấy ghép tạng. Trong nông nghiệp, nhân bản giúp cải thiện sản lượng và chất lượng nông sản. Ngoài ra, nhân bản còn có thể hỗ trợ bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm và đang bị đe dọa.
Những Vấn Đề Đạo Đức Liên Quan Đến Nhân Bản
Mặc dù có nhiều lợi ích, nhân bản vẫn tiềm ẩn nhiều vấn đề đạo đức. Những lo ngại về nhân bản con người và quyền lợi của các sinh vật nhân bản làm dấy lên tranh cãi trong cộng đồng khoa học và xã hội. Việc xác định ranh giới và quy định về nhân bản là cần thiết nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và đạo đức trong nghiên cứu khoa học.
Kết Luận
Nhân bản là một lĩnh vực nghiên cứu đầy tiềm năng và thử thách, đòi hỏi sự cân bằng giữa tiến bộ khoa học và đạo đức xã hội. Trong tương lai, khi công nghệ tiếp tục phát triển, chúng ta có thể mong đợi nhân bản góp phần quan trọng vào việc cải thiện cuộc sống con người và bảo tồn sự đa dạng sinh học trên hành tinh này.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhân bản":
Làm thế nào chúng ta nên hiểu tại sao doanh nghiệp tồn tại? Một quan điểm phổ biến đã cho rằng chúng nhằm kiểm soát chi phí giao dịch phát sinh từ động lực tự lợi của cá nhân. Trong bài viết này, chúng tôi phát triển luận điểm rằng điều mà doanh nghiệp làm tốt hơn thị trường là chia sẻ và chuyển tải kiến thức của cá nhân và nhóm trong một tổ chức. Kiến thức này bao gồm thông tin (ví dụ: ai biết cái gì) và kỹ năng (ví dụ: làm thế nào để tổ chức một nhóm nghiên cứu). Điều cốt lõi trong luận điểm của chúng tôi là kiến thức được giữ bởi cá nhân, nhưng cũng được biểu hiện qua quy luật mà các thành viên hợp tác trong một cộng đồng xã hội (tức là nhóm, tổ chức, hoặc mạng lưới). Nếu kiến thức chỉ được giữ ở cấp độ cá nhân, thì doanh nghiệp có thể thay đổi chỉ bằng việc thay đổi nhân viên. Bởi vì chúng ta biết rằng thuê nhân sự mới không tương đương với việc thay đổi kỹ năng của doanh nghiệp, việc phân tích những gì doanh nghiệp có thể làm phải hiểu biết kiến thức như là nhúng trong nguyên tắc tổ chức mà con người hợp tác trong các tổ chức.
Dựa trên thảo luận này, một nghịch lý được xác định: những nỗ lực của doanh nghiệp để mở rộng bằng cách nhân bản công nghệ của mình tăng cường khả năng bắt chước. Bằng cách xem xét làm thế nào doanh nghiệp có thể ngăn chặn bắt chước bằng sự sáng tạo, chúng tôi phát triển một cái nhìn năng động hơn về cách các doanh nghiệp tạo ra kiến thức mới. Chúng tôi xây dựng quan điểm năng động này bằng cách đề xuất rằng doanh nghiệp học những kỹ năng mới bằng cách kết hợp lại các khả năng hiện có của mình. Bởi vì các cách hợp tác mới không dễ dàng được thu nhận, sự tăng trưởng xảy ra bằng cách xây dựng trên các mối quan hệ xã hội hiện có trong một doanh nghiệp. Những gì một doanh nghiệp đã làm trước đây có xu hướng dự đoán những gì nó có thể làm trong tương lai. Theo nghĩa này, kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp cung cấp các lựa chọn để mở rộng vào các thị trường mới nhưng không chắc chắn trong tương lai.
Chúng tôi thảo luận chi tiết ví dụ về quyết định sản xuất/mua và đề xuất một số giả thuyết có thể kiểm chứng về ranh giới của doanh nghiệp, mà không cần viện đến khái niệm "cơ hội."
Việc phát hiện quang học và phân tích quang phổ của các phân tử đơn lẻ và các hạt nano đơn đã được thực hiện ở nhiệt độ phòng thông qua việc sử dụng tán xạ Raman cường cường độ bề mặt. Các hạt nano colloidal bạc đơn lẻ đã được sàng lọc từ một quần thể lớn không đồng nhất dựa trên các đặc tính phụ thuộc kích thước đặc biệt và sau đó được sử dụng để khuếch đại các dấu hiệu quang phổ của các phân tử hấp phụ. Đối với các phân tử đơn lẻ rhodamine 6G hấp phụ trên các hạt nano đã chọn, các hệ số khuếch đại Raman nội tại đạt mức từ 1014 đến 1015, lớn hơn nhiều so với các giá trị trung bình của quần thể thu được từ các phép đo thông thường. Sự khuếch đại to lớn này dẫn tới các tín hiệu dao động Raman có cường độ mạnh hơn và ổn định hơn so với huỳnh quang của phân tử đơn.
Học máy (Machine learning) nghiên cứu vấn đề làm thế nào để xây dựng các hệ thống máy tính tự động cải thiện qua kinh nghiệm. Đây là một trong những lĩnh vực kỹ thuật phát triển nhanh chóng hiện nay, nằm tại giao điểm của khoa học máy tính và thống kê, và là cốt lõi của trí tuệ nhân tạo và khoa học dữ liệu. Tiến bộ gần đây trong học máy được thúc đẩy bởi sự phát triển của các thuật toán và lý thuyết học mới cùng với sự bùng nổ liên tục trong việc sẵn có dữ liệu trực tuyến và khả năng tính toán chi phí thấp. Việc áp dụng các phương pháp học máy dựa trên dữ liệu đã xuất hiện trong khoa học, công nghệ và thương mại, dẫn đến việc ra quyết định dựa trên bằng chứng trong nhiều lĩnh vực cuộc sống, bao gồm chăm sóc sức khỏe, sản xuất, giáo dục, mô hình tài chính, cảnh sát và tiếp thị.
Các phân tích hạn chế chi tiết của nhiều mẫu thường yêu cầu một lượng thời gian và công sức đáng kể để chiết xuất DNA, thực hiện các phản ứng cắt hạn chế, blotting Southern, và quá trình lai ghép. Chúng tôi mô tả một phương pháp mới sử dụng phản ứng chuỗi polymerase (PCR) để_typing hạn chế nhanh chóng và đơn giản và lập bản đồ DNA từ nhiều chủng loại khác nhau. Các đoạn DNA có độ dài lên đến 2 kilobase pairs đã được khuếch đại hiệu quả từ các mẫu DNA thô của một số loài Cryptococcus gây bệnh, bao gồm C. neoformans, C. albidus, C. laurentii, và C. uniguttulatus. Việc tiêu hóa và điện di các sản phẩm PCR bằng cách sử dụng các enzyme cắt hạn chế thường xuyên đã tạo ra các kiểu hình cắt hạn chế phức tạp (dấu vân tay) thường là duy nhất cho mỗi chủng hoặc loài. Chúng tôi đã sử dụng PCR để khuếch đại và phân tích sự biến đổi của mẫu cắt hạn chế trong ba phần chính của các đoạn DNA ribosome (rDNA) từ những loại nấm này. Việc lập bản đồ chi tiết nhiều vị trí cắt hạn chế trong locus rDNA đã được xác định qua phân tích dấu vân tay của các đoạn PCR ngày càng lớn chia sẻ một vị trí mồi chung ở một đầu. Theo dấu vân tay PCR, rDNA của 19 chủng C. neoformans cho thấy không có sự biến đổi nào đối với bốn enzyme cắt hạn chế mà chúng tôi đã khảo sát. Các loài Cryptococcus khác cho thấy mức độ biến đổi mẫu cắt hạn chế khác nhau trong rDNAs của chúng và đã được chứng minh là khác biệt về mặt di truyền so với C. neoformans. Các mồi PCR được sử dụng trong nghiên cứu này cũng đã được áp dụng thành công để khuếch đại rDNAs từ các loại nấm gây bệnh và không gây bệnh khác, bao gồm cả loài Candida, và có khả năng ứng dụng rộng rãi cho phát hiện lâm sàng cũng như các nghiên cứu khác.
Mục tiêu. Kiểm tra tính giá trị cấu trúc của phiên bản rút gọn của thang đánh giá trầm cảm, lo âu và căng thẳng (DASS-21), đặc biệt đánh giá xem căng thẳng theo chỉ số này có đồng nghĩa với tính cảm xúc tiêu cực (NA) hay không hay nó đại diện cho một cấu trúc liên quan nhưng khác biệt. Cung cấp dữ liệu chuẩn hóa cho dân số trưởng thành nói chung.
Thiết kế. Phân tích cắt ngang, tương quan và phân tích yếu tố xác nhận (CFA).
Phương pháp. DASS-21 được áp dụng cho một mẫu không có bệnh lý, đại diện rộng cho dân số trưởng thành tại Vương quốc Anh (
Kết quả. Mô hình có sự phù hợp tối ưu (RCFI = 0.94) có cấu trúc tứ phương, bao gồm một yếu tố chung của rối loạn tâm lý cộng với các yếu tố cụ thể vuông góc của trầm cảm, lo âu, và căng thẳng. Mô hình này có sự phù hợp tốt hơn đáng kể so với mô hình cạnh tranh kiểm tra khả năng rằng thang đo Stress chỉ đơn giản đo NA.
Kết luận. Các thang đo phụ DASS-21 có thể được sử dụng hợp lệ để đo lường các khía cạnh của trầm cảm, lo âu và căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi thang đo phụ này cũng chạm đến một khía cạnh chung hơn của rối loạn tâm lý hoặc NA. Sự tiện ích của thang đo được nâng cao nhờ có dữ liệu chuẩn hóa dựa trên một mẫu lớn.
Xây dựng và đặc trưng một lớp phương tiện nhân bản plasmid đa bản chứa hệ thống tái sinh của miniplasmid P15A được mô tả. Các plasmid được xây dựng có điểm cắt nằm trong các gen kháng kháng sinh cho một loạt các endonuclease đặc hiệu đã được sử dụng, cho phép áp dụng quy trình làm bất hoạt chèn để lựa chọn các dòng chứa phân tử DNA lai. Mặc dù các plasmid được xây dựng cho thấy sự đồng hình DNA với plasmid ColE1 trong vùng tái sinh, có thể khuếch đại bằng chloramphenicol hoặc spectinomycin, yêu cầu DNA polymerase I cho quá trình tái sinh, và có các đặc tính tái sinh khác giống như ColE1, nhưng chúng vẫn tương thích với ColE1. Các plasmid có nguồn gốc từ P15A không tự truyền được và có khả năng di động kém bởi các dòng Hfr; tuy nhiên, khả năng di động được cải thiện khi có sự hiện diện của plasmid ColE1 trong cùng một tế bào.
Các nghiên cứu dịch tễ học quan sát thường gặp nhiều xung đột tiềm ẩn, từ nhiễu đồng biến và do mối nhân quả ngược, điều này hạn chế khả năng xác định mạnh mẽ mối quan hệ nhân quả của chúng. Đã có nhiều tình huống nổi bật trong đó các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên của chính xác các can thiệp đã được khảo sát trong các nghiên cứu quan sát đã cho ra kết quả khác biệt rõ rệt. Trong các lĩnh vực khoa học quan sát khác, việc sử dụng các phương pháp biến công cụ (IV - Instrumental Variable) là một phương án tiếp cận để củng cố các suy luận nhân quả trong các tình huống không thực nghiệm. Sử dụng các biến đổi gen mầm uỷ để làm các công cụ cho các tiếp xúc có thể điều chỉnh môi trường là một dạng phân tích IV có thể thực hiện trong các nghiên cứu dịch tễ học quan sát. Phương pháp này được gọi là 'hoán vị Mendel', và có thể được coi như tương tự với các thử nghiệm kiểm soát ngẫu nhiên. Bài viết này giới thiệu phương pháp hoán vị Mendel, làm nổi bật sự tương đồng với các phương pháp IV, cung cấp ví dụ về việc thực hiện phương pháp này và thảo luận các hạn chế của phương pháp cũng như một số phương pháp để giải quyết những vấn đề này. Bản quyền © 2007 John Wiley & Sons, Ltd.
▪ Tóm tắt: Khoảng giữa cho đến cuối thập niên 1980, các nghiên cứu đã được công bố chứng minh sự tồn tại của các thụ thể glutamate không phải là kênh cation điều khiển ligan mà được kết nối với hệ thống hiệu ứng thông qua các protein liên kết với GTP. Kể từ những báo cáo ban đầu đó, đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc đặc trưng hóa các thụ thể glutamate metabotropic (mGluRs), bao gồm việc nhân bản và đặc trưng hóa cDNA mã hóa cho một họ gồm tám kiểu thụ thể mGluR, trong số đó có một số loại phân cắt khác nhau. Cũng có sự tiến bộ vượt bậc trong việc phát triển mới các chất chủ vận và chất đối kháng mGluR đặc hiệu cao, và hướng đến xác định vai trò sinh lý của các mGluR trong não động vật có vú. Những phát hiện này có những triển vọng thú vị đối với việc phát triển thuốc và cho thấy rằng các mGluR cung cấp một mục tiêu mới cho phát triển các tác nhân điều trị có thể có tác động đáng kể lên dược lý thần kinh.
Tổng cộng có 3786 người tham gia trong 14 mẫu độc lập, với quy mô từ 45 đến 549 trong các công ty và cơ quan ở Mỹ và nước ngoài, đã hoàn thành phiên bản mới nhất của Bảng câu hỏi Lãnh đạo Đa nhân tố (MLQ Form 5X), mỗi người mô tả người lãnh đạo tương ứng của mình. Dựa trên tài liệu trước đó, chín mô hình đại diện cho các cấu trúc yếu tố khác nhau đã được so sánh để xác định mô hình phù hợp nhất cho khảo sát MLQ. Các mô hình đã được kiểm tra trong một bộ mẫu ban đầu gồm chín mẫu, sau đó là một bộ tái lập thứ hai gồm năm mẫu. Kết quả chỉ ra rằng cấu trúc yếu tố cho khảo sát MLQ được đại diện tốt nhất bởi sáu yếu tố thứ cấp và ba yếu tố bậc cao có liên quan.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10